Thủy sản gặp khó trước dự thảo Nghị định về bảo vệ môi trường

Theo phản ánh của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) sau hơn 2 tháng thực hiện “3 tại chỗ”, doanh nghiệp thủy sản đã phải đối mặt với muôn vàn khó khăn và áp lực do đứt gãy toàn chuỗi từ nuôi – khai thác – chế biến – xuất khẩu, các doanh nghiệp ngành hàng đang chuẩn bị phục hồi cho giai đoạn “bình thường mới” theo chủ trương của Chính phủ thì tiếp tục phải hứng chịu những đe dọa tiềm ẩn của các quy định mới từ Luật Bảo vệ môi trường.

Cụ thể, theo tính toán sơ bộ của các doanh nghiệp thủy sản thực hiện sản xuất “3 tại chỗ”, giá thành trên đơn vị sản phẩm đã tăng 10-25% tùy theo loại sản phẩm (tôm, cá tra, cá ngừ, hải sản,..) và quy mô công suất chế biến. Một doanh nghiệp trung bình sẽ lỗ khoảng 30%/tháng nếu duy trì sản xuất “3 tại chỗ” với chỉ 1/3 công suất và sẽ thiệt hại 50-55%/tháng nếu ngưng sản xuất.

Ngành thủy sản đứng trước nguy cơ khó chồng khó khi áp dụng những quy định mới trong Dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật Bảo vệ môi trường 2020 – Ảnh: VASEP

Từ thực tế đã nêu, hầu hết doanh nghiệp thủy sản đang “ngồi trên đống lửa” thì mới đây, các doanh nghiệp lại tiếp tục quan ngại khi Dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật Bảo vệ Môi trường 2020 mà Bộ Tài nguyên và Môi trường đang lấy ý kiến (sau đây gọi tắt là “Dự thảo”) quy định: các nhà máy chế biến thủy sản có lưu lượng xả nước thải ra môi trường từ 200 m3/ngày trở lên phải lắp hệ thống quan trắc tự động nước thải.

Theo đó, Dự thảo quy định: các cơ sở chế biến thủy sản và ngành chế biến thủy sản bị xếp vào Mức III của “Loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường” của Phụ lục 5 “Danh mục loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường” có lưu lượng xả nước thải ra môi trường chỉ từ 200 m3/ngày trở lên thì phải lắp hệ thống quan trắc tự động nước thải. Như vậy, quy định này đã giảm từ mức 1.000 m3/ngày (theo quy định tại Nghị định số 40/2019/NĐ-CP) xuống 200 m3/ngày (thời gian tới).

Theo VASEP, yêu cầu này không chỉ khiến quy mô và số lượng lớn gần 100% các nhà máy, bao gồm rất nhiều các nhà máy nhỏ, phải thực hiện và phải đầu tư hệ thống quan trắc với chi phí đắt đỏ đẩy giá thành sản xuất tăng cao, mà còn khiến doanh nghiệp phải thêm chi phí vận hành từ 40-50 triệu đồng/kỳ quan trắc.

Đáng nói, hệ thống quan trắc tự động nước thải không có tác dụng để quản lý mức độ ô nhiễm do kết quả quan trắc không chính xác, khiến doanh nghiệp luôn đứng trước nguy cơ bị phạt dù thực hiện sản xuất không đe dọa hay gây ảnh hưởng đến môi trường.

VASEP cho rằng, hiện nay, theo Nghị định số 40/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường thì các nhà máy chế biến thủy sản có dung lượng xả thải 500 m3/ngày phải lắp đặt hệ thống quan trắc tự động nước thải, nhưng theo thống kê, cho tới nay, tại nhiều địa phương, chỉ có 1 doanh nghiệp chế biến thủy sản lắp đặt được hệ thống này.

Viêc Dự thảo nghị định giảm dung lượng xả thải xuống ngưỡng 200 m3/ngày phải lắp hệ thống quan trắc tự động nước thải khiến các doanh nghiệp thắc mắc, quy định về ngưỡng xả thải trung bình và lớn (làm căn cứ để yêu cầu lắp thiết bị quan trắc tự động và quy định tần suất quan trắc nước thải định kỳ) của ngành tài nguyên môi trường không rõ dựa trên cơ sở khoa học nào, và có nhiều điểm bất hợp lý.

Việc đưa các doanh nghiệp ngành thủy sản vào nhóm ngành nghề có nguy cơ cao về tác động đến môi trường được cho là bất hợp lý – Ảnh: VASEP

Bên cạnh đó, Dự thảo còn đưa ra ngưỡng lưu lượng xả thải từ 15.000 m3/ngày trở lên thì “tần suất quan trắc nước thải định kỳ” là 01 tháng/lần cũng khiến các doanh nghiệp thủy sản vô cùng quan ngại bởi do đặc thù có lưu lượng xả thải rất lớn (thậm chí lên tới 30% lượng nước trong ao nuôi/ngày), nếu áp dụng theo quy định trên thì hầu như các vùng nuôi thủy sản đều phải thực hiện quan trắc 1 tháng/ lần. Điều này sẽ làm tăng chi phí lấy mẫu và phân tích mẫu lên rất nhiều trong khi quy định hiện hành chỉ là 3 tháng/lần.

Thông tin với Diễn đàn Doanh nghiệp, ông Nguyễn Hoài Nam – Phó tổng Thư ký VASEP cho rằng, việc đưa nhà máy thủy sản vào mức nguy cơ ô nhiễm cao là không công bằng bởi thực tế so với các ngành công nghiệp chế biến thực phẩm như: bánh kẹo, sữa, dệt nhuộm… thì nước thải của ngành thủy sản ít ô nhiễm môi trường, ít độc hại hơn nhiều.

Theo ông Nam, về khí thải: Hiện chỉ có một số ít nhà máy chế biến thủy sản có công đoạn gia nhiệt (nhà máy đồ hộp, nhà máy sản xuất hàng chín, hàng chần như chả cá, tôm luộc, tôm bao bột,…) có sử dụng lò hơi chứ không như một số nhà máy chế biến thực phẩm khác như sản xuất bánh kẹo bánh, sữa, cà phê hòa tan…

Về nước thải: Theo QCVN 11:2015 về nước thải nhà máy chế biến thủy sản đã nêu các chỉ tiêu đặc thù của nước thải chế biến thủy sản, theo đó, không có các chỉ tiêu nước thải độc hại; các chỉ tiêu nước thải cũng chủ yếu có nguồn gốc từ cơ thịt thủy sản và các phụ gia thực phẩm, đều là những chất từ tự nhiên và ăn được đối với con người, không gây độc hại mạnh như những hóa chất dùng trong các ngành công nghiệp khác.

Về chất thải rắn: Các chất thải rắn chính trong quá trình chế biến chủ yếu là các phế liệu từ thủy sản như xương cá, da cá, mỡ cá, vỏ tôm, đầu tôm, vỏ ngao, sò… hoặc một số túi nylon, bao bì carton… Các phế liệu thủy sản đa phần được các cơ sở bên ngoài thu gom để làm nguyên liệu cho các ngành sản xuất khác như sản xuất thức ăn chăn nuôi, dầu biodiezel, chitin, chitosan, collagen… Vỏ ngao, sò, ốc, hến… cũng thường được một số cơ sở thu mua để làm nguyên liệu sản xuất đồ mỹ nghệ, xay ra thành bột trộn vào thức ăn chăn nuôi để tăng lượng canxi cho vật nuôi, lấp đất, lấp đường… hoặc nếu phải bỏ đi thì cũng không phân hủy tạo thành các chất thải nguy hại. Các bao bì carton, nylon cũng được các cơ sở thu gom phế liệu thu mua lại để làm nguyên liệu tái chế.

Chưa kể theo xếp loại của Dự thảo thì ngành nuôi trồng (vốn phải sử dụng lượng nước lớn để nuôi) lại nằm trong “Danh mục dự án đầu tư nhóm I có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao” – theo đó Dự án khai thác khoảng sản, tài nguyên nước; dự án có hoạt động xả nước thải vào nguồn nước với công suất từ 3.000 m3/ngày đêm trở lên phải xin cấp giấy phép về khai thác khoáng sản, tài nguyên nước từ Bộ Tài nguyên và Môi trường và “Danh mục các dự án đầu tư Nhóm II có nguy cơ tác động xấu đến môi trường” – quy định “Dự án sử dụng đất, đất có mặt nước quy mô trung bình từ 50 ha đến dưới 100 ha” được xếp vào Nhóm II có nguy cơ tác động xấu đến môi trường.

Ông Nam cho rằng, quy định này đang đi ngược lại với chủ trương hiện đại hóa nông nghiệp, khuyến khích nhân rộng mô hình “cánh đồng mẫu lớn” của Chính phủ, dẫn tới, các cơ sở nuôi trồng thủy sản nhỏ lẻ cũng phải xin cấp phép cấp Bộ Tài nguyên và Môi trường vẫn thuộc nhóm nguy cơ tác động xấu đến môi trường, gia tăng thủ tục hành chính, tăng thêm gánh nặng cho các cơ sở nuôi trồng.

Nguồn: diendandoanhnghiep.vn