Công nghệ được cho là giải pháp quan trọng nâng tầm chất lượng ngành chăn nuôi Việt Nam không chỉ xuất khẩu mà đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng nội địa.
Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ngành chăn nuôi đã tạo sinh kế cho 6,5 triệu nông hộ trong tổng số 8,6 triệu hộ sản xuất nông nghiệp. Song quy mô ngành vẫn chủ yếu phụ thuộc các hộ nhỏ lẻ. Trong bối cảnh nhiều dịch bệnh nguy hiểm, luôn tiềm ẩn nguy cơ bùng phát trên diện rộng. Việc tổ chức chăn nuôi theo chuỗi liên kết cũng chiếm tỷ trọng rất thấp.
Để cải thiện bối cảnh và nâng tầm lĩnh vực chăn nuôi, công nghệ là từ khoá các chuyên gia nhấn mạnh tại toạ đàm “Phát triển sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi” chiều nay trên VnExpress
Theo ông Phạm Văn Duy, Phó Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Hiện nay người tiêu dùng rất quan tâm đến việc dán tem truy xuất nguồn gốc. Thống kê cho thấy Hà Nội đã có 5.000 sản phẩm dán QR code để trích xuất nguồn gốc. Quá trình này có được do ứng dụng blockchain và tính ra trình độ ứng dụng ở mức ngang tầm khu vực.
Cũng theo một đại diện từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tại Việt Nam hiện công nghệ trong chăn nuôi đã bắt kịp với mặt bằng ASEAN. Việc ứng dụng công nghệ áp dụng phù hợp với từng phương thức sản xuất, nông hộ thấp, nhưng trong doanh nghiệp lại cao. Ví dụ trong chăn nuôi bò sữa với sự dẫn dắt của các công ty lớn, việc đầu tư công nghệ tự động, số hoá… áp dụng vào sản xuất chế biến mạnh mẽ.
Hiện nay 75% hộ nông dân sử dụng máy vắt sữa, 60% sử dụng máy chăn dắt, 55% con bò được đeo chip điện tử, nhận diện cá thể. Ăn thức ăn TMR cân bằng hoàn chỉnh. Sản xuất sửa bằng công nghệ hiện đại chiếm tỷ trọng 63%. Việt Nam đứng đầu châu Á trong ứng dụng công nghệ chăn nuôi và đứng thứ 12 trong châu Á về lĩnh vực thức ăn công nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đầu tư hệ thống hoàn chỉnh từ đầu vào đến đầu ra, công nhân kỹ thuật chủ yếu kiểm soát quy trình bằng máy tính
“Các doanh nghiệp phải nỗ lực để cạnh tranh ngay trên sân nhà và thậm chí tại các thị trường mà chúng ta xuất khẩu sang. Vì vậy, giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh thì công nghệ là con đường đầu tiên”, vị này nói.
Đối với việc nuôi trồng và chế biến tôm, theo Nguyễn Công Cẩn – Phó tổng giám đốc Kỹ thuật tập đoàn Việt – Úc, ngành thủy sản nói chung tiếp cận sớm với công nghệ. Dù vậy, các doanh nghiệp cần tìm hiểu công nghệ phù hợp thế nào với từng quy mô nông hộ, sản xuất để đảm bảo cả chất lượng, và số lượng.
Trong chọn giống, Việt Nam là 1 trong 4 quốc gia có thể lai tạo tôm giống bố mẹ để ra giống chất lượng. Trước đó, Việt Nam phải nhập khẩu tôm bố mẹ từ nước ngoài. Hiện nhờ ứng dụng công nghệ đã thành công. Việc ứng dụng công nghệ đã tạo nên 3 ưu thế về an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc và trách nhiệm xã hội, tiến tới sản xuất bền vững. “Nếu so với toàn khu vực thì có thể nói công nghệ ngang tầm’, Phó tổng giám đốc Kỹ thuật tập đoàn Việt – Úc cho hay. Thừa nhận công nghệ sẽ lột xác cho nghành song vị đại diện doanh nghiệp này cho rằng, nếu xác định làm là phải có lộ trình. Doanh nghiệp hay nông hộ nhỏ thường không có điều kiện tìm hiểu thị trường, sản phẩm nhiều bằng doanh nghiệp lớn. “Chúng tôi khi có cơ hội tối ưu hoá công nghệ cũng như am hiểu thị trường sẽ đem ngược kiến thức đó về cho người nông dân”, Phó tổng giám đốc Kỹ thuật tập đoàn Việt – Úc nói
Nhiều cơ hội cho ngành
Trước xu thế hội nhập sâu rộng thời gian tới, các chuyên gia cho biết điều này mang đến cả thách thức lẫn cơ hội. Nếu doanh nghiệp muốn đi từ nền tảng bền vững, cần đảm bảo 3 yếu tố quan trọng là: an toàn, truy xuất nguồn gốc và tiêu thụ, ông Cẩn cho hay.
Song quay lại thị trường trong nước hiện nay, không nhiều doanh nghiệp chế biến chăn nuôi làm được những điều này. Trong khi đó, người tiêu dùng còn thiếu thông tin, thiếu kiến thức chung. “Còn một số người chưa hiểu được thế nào là an toàn thực phẩm dẫn đến những làn sóng thông tin không hay cho sản phẩm của doanh nghiệp”, ông Cẩn nói.
Lợi thế của doanh nghiệp chế biến nông sản Việt Nam đến từ nguồn lao động dồi dào, đa dạng sản phẩm chăn nuôi. Khi cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài trên sân nhà, ông Cẩn tin rằng khối nội vẫn có những điểm mạnh rõ rệt.
Ở góc độ quản lý Nhà nước, ông Tống Xuân Chinh cho biết Việt Nam đã ký 14 hiệp định thương mại. Đây là bước đệm tốt cho sự phát triển chung của ngành chăn nuôi. “Doanh nghiệp lúc này đã tiếp cận với một thị trường lớn hơn, người tiêu dùng thông minh hơn, nguồn nguyên vật liệu và máy móc kỹ thuật từ những nước này cũng tiến bộ khác xa so với Việt Nam”, ông Chinh nói.
Việc liên kết sản xuất theo chuỗi, khép kín với những doanh lớn đang tạo ra hiệu quả rõ rệt. Cùng với đó, công nghệ là yếu tố quan trọng để đưa sản phẩm chăn nuôi đến người tiêu dùng châu Âu, Mỹ.
Ông Phạm Đức Duy nhận định, tham gia CPTPP và EVFTA, Việt Nam đang bước vào một cuộc chơi có nhiều thách thức. Ông chỉ ra 4 vấn đề lớn trong năng lực cạnh tranh mà Việt Nam luôn gặp phải bao gồm: kiểm soát nguyên liệu đầu vào, kiểm soát các công đoạn sản xuất, kiểm soát theo tiêu chuẩn quốc tế và giá thành còn cao.
Theo ông để tăng sức cạnh tranh Việt Nam cần phải khắc phục 4 yếu tố này. Ở góc độ quản lý nhà nước, để doanh nghiệp tham gia thị trường quốc tế và đồng thời đứng vững sân nhà, chính phủ cần cởi trói thủ tục hành chính để thu hút đầu tư, giải phóng sản phẩm kịp thời để chớp lấy thời cơ phát triển.
Về vấn đề hình thành liên minh sản xuất trong nông nghiệp cũng là hướng đi của tương lai. Từ góc độ doanh nghiệp, ông Cẩn cho biết, đoàn kết là sức mạnh. Các doanh nghiệp có thể chia sẻ kinh nghiệm, và linh hoạt trong hoạt động sản xuất để giảm giá thành và gia tăng lợi thế cạnh tranh. Đồng tình quan điểm ông Chinh nhận định, đây là xu hướng tất yếu, các doanh nghiệp cần dựa trên lợi thế và nhận định điểm yếu để liên kết và khép kín chuỗi giá trị. Trong nông nghiệp và chăn nuôi có nhiều mô hình đã thực hiện, hình thành chuỗi như Thadi và Hoàng Anh Gia Lai để tận dụng thế mạnh, khắc phục điểm yếu.
Nguồn: VnExpress